Lần đầu tiên chúng ta đã đào tạo và đưa được một số lượng lớn lao động là người dân tộc ra nước ngoài làm việc. Người lao động các huyện nghèo đi làm việc đều có việc làm và thu nhập ổn định, cao nhất là thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản với mức lương 15-22 triệu/tháng.
Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền
PV đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền về vấn đề trên tại Hội nghị đánh giá tình hình thực hiện chính sách xuất khẩu lao động (XKLĐ), dạy nghề và giảm nghèo tại các huyện nghèo, tổ chức ngày 19/1 tại Lào Cai.
Thưa Bộ trưởng, sau 5 năm thực hiện Quyết định 71 của Thủ tướng Chính phủ về XKLĐ tại các huyện nghèo, điểm “sáng” nhất trong công tác triển khai tới thời điểm hiện nay là gì?
Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 24/9/2009 với mục tiêu “Nâng cao chất lượng lao động và tăng số lượng người lao động ở các huyện nghèo tham gia XKLĐ, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và thực hiện giảm nghèo bền vững”.
Sau hơn 5 năm thực hiện đã khẳng định chủ trương đưa lao động các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài là hoàn toàn đúng đắn và khả thi. Lao động các huyện nghèo có thể đến làm việc tại tất cả các thị trường, từ thị trường dễ tính đến thị trường có yêu cầu cao về chất lượng lao động như Nhật Bản, Hàn Quốc.
Lần đầu tiên, chúng ta đã đào tạo và đưa được một số lượng lớn lao động là người dân tộc ra nước ngoài làm việc. Cụ thể, hơn 18.500 lao động được tuyển chọn để đào tạo và gần 10.000 lao động đã được đưa đi làm việc tại các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Ả rập Xê út...
Trong đó 95% là người nghèo và người dân tộc. Người lao động các huyện nghèo đi làm việc đều có việc làm và thu nhập ổn định, trung bình từ 5.000.000-7.000.000 đồng/tháng ở thị trường Malaysia; 6.500.000 - 7.500.000 đồng/tháng ở thị trường Lybia, UAE, Ả rập xê út, Ma Cao; 15.000.000 - 22.000.000 đồng/tháng ở thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản.
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền gặp gỡ lao động XKLĐ về nước
Mặc dù có những điểm nổi bật như vậy, nhưng Bộ LĐ-TB&XH đã rất thẳng thắn thừa nhận một thực tế là kết quả của việc thực hiện mới đạt 30% mục tiêu đề ra. Bộ trưởng có thể cho biết rõ hơn những tồn tại, vướng mắc khiến kết quả đạt chưa cao?
Thực tế cho thấy, tỉ lệ lao động bỏ về trong thời gian đào tạo khá cao, trung bình 18%, một số địa phương có tỉ lệ lao động bỏ học rất cao như Phú Thọ (59%), Lâm Đồng (44%), Nghệ An (29%).
Cá biệt có địa phương như Đakrông (Quảng Trị), Tân Sơn (Phú Thọ), Mường Nhé (Điện Biên) tỉ lệ bỏ của một khóa đào tạo lên tới 60-70%. Tỉ lệ bỏ không xuất cảnh sau khi được đào tạo trung bình 21%. Tỉ lệ xin về nước sau khi xuất cảnh cũng cao hơn nhiều so với tình hình chung.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, cụ thể: Về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện. Một số chính sách chưa phù hợp như qui định về hỗ trợ đi lại cho người lao động, hỗ trợ doanh nghiệp khi tham gia Đề án, chưa qui định quy chế ràng buộc trách nhiệm đối với doanh nghiệp và người lao động khi tham gia Đề án, thiếu cơ chế khuyến khích khen thưởng đối với doanh nghiệp thực hiện tốt.
Quy trình tổ chức hỗ trợ chưa tạo sự thuận lợi cho doanh nghiệp và người lao động. Các thông tin tuyên truyền chưa phù hợp với đặc điểm địa hình, tâm lý, trình độ, phong tục tập quán cũng như văn hóa khi phần lớn đối tượng là người dân tộc thiểu số.
Trong khi đó, các cơ quan còn chậm đề xuất mô hình tổ chức thực hiện phù hợp với đặc thù của đối tượng lao động thuộc các huyện nghèo. Lực lượng cán bộ làm công tác XKLĐ ở cấp huyện rất mỏng nên công tác XKLĐ không được thực hiện thường xuyên.
Tại địa phương, các cơ quan địa phương có lúc, có nơi chưa thực sự quyết liệt trong chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện Đề án. Công tác kiểm tra, giám sát còn bất cập, chưa bám sát địa phương, doanh nghiệp nên đã không phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc xảy ra với NLĐ.
Lao động đi XKLĐ làm thủ tục về nước
Thưa Bộ trưởng, đứng về góc độ tham gia của các doanh nghiệp và người lao động, cần lưu ý điều gì trong quá trình tổng kết Đề án?
Tới nay đã có trên 30 doanh nghiệp tham gia Đề án với hơn 350 hợp đồng cung ứng lao động, trong đó có 24 doanh nghiệp đã ký hợp đồng đặt hàng, tuyển chọn và đưa lao động huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh nhiều doanh nghiệp thực sự vào cuộc thì còn không ít doanh nghiệp chưa nhận thức được ý nghĩa của Đề án, trách nhiệm xã hội còn hạn chế nên chưa tham gia Đề án.
Một số doanh nghiệp tham gia Đề án cũng chưa ý thức hết được sự khó khăn, phức tạp nên việc tuyển chọn, đào tạo lao động các huyện nghèo chưa được đầu tư và tổ chức thực hiện đúng qui định, qui trình, còn để xảy ra những rủi ro, bất lợi cho người lao động và ảnh hưởng đến việc triển khai Đề án tại địa phương.
Đứng về phía người lao động, ngoài những hạn chế về trình độ văn hóa, tay nghề thì những hạn chế về nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật, sức khỏe của NLĐ cũng là những rào cản lớn trong quá trình tổ chức thực hiện.
Ví dụ: Tỉ lệ lao động không đủ sức khỏe vòng sơ tuyển là 33,5%, tỉ lệ lao động không đủ sức khỏe vòng tuyển chính thức để đi làm việc ở nước ngoài là 16,8%...
Đồng thời, do ảnh hưởng của phong tục tập quán và văn hóa, những lao động là người dân tộc chưa quen và khó chấp nhận cuộc sống xa gia đình, chưa sẵn sàng thích ứng với nhịp sống và làm việc trong khuôn khổ tổ chức, quản lý thời gian chặt chẽ, cường độ là động cao, khẩn trương
Để nâng cao hiệu quả của Đề án trong thời gian tới, Bộ LĐ-TB&XH sẽ có giải pháp gì để thay đổi thúc đẩy, thưa Bộ trưởng?
Để thực hiện tốt hơn trong thời gian tới cần hoàn thiện cơ chế chính sách để phù hợp với thực tế triển khai Đề án, cụ thể là sửa đổi một số nội dung trong Quyết định 71 và các văn bản hướng dẫn. Trước mắt, ưu tiên đơn giản hóa qui trình, thủ tục thực hiện hỗ trợ cho NLĐ và doanh nghiệp tham gia Đề án.
Đặc biệt là đổi mới công tác thông tin tuyên truyền, đổi mới phương pháp, hình thức và nội dung tuyên truyền về chính sách pháp luật của Nhà nước, của địa phương về XKLĐ nói chung và công tác XKLĐ theo Quyết định 71 nói riêng cho phù hợp với đặc điểm tình hình, trình độ văn hoá, phong tục tập quán của người dân các huyện nghèo...
Bên cạnh đó, lựa chọn và nhân rộng các mô hình tuyển chọn, đào tạo gắn kết giữa địa phương và doanh nghiệp; tăng cường công tác giám sát nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những tồn tại, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện...
Xin cảm ơn Bộ trưởng!