Theo tính toán, hệ thống thu phí không dừng có thể giúp cơ quan chức năng tiết kiệm 3.400 tỷ đồng/năm. Và mỗi xe đi qua chỉ mất từ 5-10 giây cho việc thu phí.
Sáng 10/3, tại Hà Nội, Bộ GTVT đã tổ chức họp báo công bố công nghệ thu phí không dừng (ETC) và kiểm soát tải trọng xe trên quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên.
Công nghệ ETC được thí điểm áp dụng tại 3 trạm thu phí gồm Trạm Hoàng Mai, Trạm Km604+700 Quốc lộ (QL) 1 và Trạm Km1813+650 đường Hồ Chí Minh.
Đây là công nghệ nhận dạng tần số sóng vô tuyến (RFID) tiêu chuẩn ISO/IEC 18000-6C do Hoa Kỳ phát triển, đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Công nghệ này có nhiều ưu điểm như: chi phí đầu tư thấp, thao tác đơn giản, tốc độ nhận diện phương tiện nhanh, kết quả thu phí chính xác gần như tuyệt đối và dễ được chủ phương tiện giao thông chấp thuận.
Để sử dụng dịch vụ này, chủ phương tiện sẽ được phát miễn phí một thẻ định danh (E-tag) để dán lên kính trước xe và kèm theo một tài khoản thu phí để giao dịch. Tài khoản này có thể dễ dàng nạp tiền bằng nhiều kênh khác nhau như nập trực tiếp, qua mạng internet, qua ngân hàng, thẻ cào, gửi tin nhắn bằng điện thoại…
Sau khi xe đã được dán thẻ chạy vào làn thu phí, hệ thống nhận diện xe bằng công nghệ laser sẽ kích hoạt camera chụp biển số và hệ thống ăng-ten sẽ phát tín hiệu để đọc thẻ E-tag. Hình ảnh và thông tin được chuyển về trung tâm dữ liệu để xử lý và kiểm tra số dư tài khoản thu phí của xe.
Nếu tài khoản thu phí của xe đủ điều kiện để qua trạm, các thanh chắn ba-ri-e sẽ được mở tự động để xe đi qua, đồng thời một tin nhắn SMS được gửi về số điện thoại đã đăng ký của chủ phương tiện thông báo xe vừa qua trạm.
Trường hợp tài khoản không đủ hoặc xe không dán thẻ E-tag, hệ thống sẽ tự động chuyển sang chế độ thu một dừng (MTC). Toàn bộ giao dịch thu phí tại trạm bao gồm ETC và MTC đều được chuyển về và lưu trữ trên trung tâm dữ liệu của hệ thống.
Cho đến thời điểm này, Ngân hàng BIDV và nhà đầu tư Tasco đã xây dựng xong hệ thống phần mềm cho toàn bộ nghiệp vụ thanh toán. Hệ thống đã được kiểm tra và sẵn sàng cho việc triển khai thực tế (sẽ triển khai ngay trong tháng 3-2015).
Theo Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường, việc áp dụng công nghệ thu phí ETC và kiểm soát tải trọng xe trên QL1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên nhằm bảo đảm yêu cầu cung cấp dịch vụ thu phí hiện đại, minh bạch, tránh tiêu cực, thất thoát và hướng tới sự hài lòng cao nhất cho người tham gia giao thông.
Hơn nữa, việc sử dụng hệ thống cân tự động còn góp phần tiết kiệm ngân sách do giảm lực lượng cán bộ hoạt động tại các trạm cân. Quan trọng hơn, việc áp dụng công nghệ thu phí điện tử và kiểm soát tải trọng xe được đưa vào sử dụng cho các tuyến đường bộ sẽ phát huy được các lợi ích về kinh tế-xã hội cho nhà đầu tư, các chủ phương tiện và các cơ quan quản lý đường bộ.
Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường còn cho biết thêm, nếu không có gì thay đổi, thì từ tháng 5 sẽ tiến hành thu phí không dừng trên toàn quốc.
Theo tính toán, hệ thống mới này còn có thể giúp cơ quan chức năng tiết kiệm 3.400 tỷ đồng/năm. Và mỗi xe đi qua chỉ mất từ 5-10 giây cho việc thu phí.
Sau 5 tiếng đồng hồ vượt con đường ngoằn ngoèo vắt ngang đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ bằng xe máy, chúng tôi đặt chân đến Đồn Biên phòng 649, thuộc xã biên giới A Xan, huyện Tây Giang, Quảng Nam…
Đồn Biên phòng 649 tựa vào vách núi, hướng ra ruộng bậc thang bên bờ suối, cách trụ sở UBND xã A Xan chừng nửa cây số. Bên chén trà nóng thơm nức mùi hoa nhài, Thượng tá Trần Đắc Đồng (Đồn trưởng) cho biết: Đồn Biên phòng 649 quản lý, bảo vệ tuyến biên giới dài 20km, gồm 7 mốc quốc giới (từ cột mốc 685 đến cột mốc 691), tiếp giáp 6 cụm bản là Tà Vàng, Ba Lê, Chi Tơ, Keo Achinh, Ka Uông, A Ting, thuộc huyện Kà Lừm, tỉnh Sê Kông - Lào, với 206 hộ, 1.045 nhân khẩu.
Trong nội địa, Đồn quản lý 15 thôn của 2 xã A Xan và Tr hy, với 734 hộ, 3.380 nhân khẩu. Địa hình núi rừng hiểm trở, bị chia cắt bởi sông suối, nhất là mùa mưa lũ, thời tiết khắc nghiệt, giao thông cách trở, song các CBCS Đồn Biên phòng vẫn kiên cường nỗ lực vượt qua bao khó khăn, thử thách để giữ bình yên từng tấc đất biên cương.
“Đảm bảo an ninh biên giới là nhiệm vụ hết sức nặng nề và vinh quang của CBCS Đồn Biên phòng 649. Chỉ tính 5 năm trở lại đây, đơn vị đã phát hiện 175 vụ, việc, xử lý 241 đối tượng vi phạm TTATXH và vượt biên trái phép; phối hợp với Công an huyện Tây Giang điều tra, xử lý 53 vụ, 97 đối tượng khác.
Nhờ vậy, an ninh biên giới giữ vững, tình đoàn kết gắn bó của nhân dân 2 nước tại khu vực vùng biên được duy trì và phát huy. Đặc biệt, đối với công tác tôn tạo và tăng dày mốc quốc giới, đơn vị coi đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và là nền tảng để xây dựng biên giới hữu nghị bền vững.
Địa hình rừng núi hiểm trở, độ cao từ 1.650 đến 2.050m, xác định vị trí cắm mốc đã vô cùng gian nan, chuyển vật liệu lên tận nơi xây dựng cột mốc càng gian nan gấp bội. Vì biên giới bình yên, hữu nghị, vượt qua vô vàn gian khổ, hiểm nguy, CBCS đơn vị và nhân dân địa phương đã tôn tạo 2 cột mốc, xây dựng mới 5 cột mốc khác, được Ủy ban liên hiệp cắm mốc biên giới Việt – Lào đánh giá rất cao...”, Thượng tá Đồng bày tỏ.
Với phương châm: “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc thiểu số là anh em ruột thịt”, CBCS Đồn Biên phòng 649 vừa thực thi nhiệm vụ quản lý địa bàn, đảm bảo an ninh biên giới, vừa tích cực giúp dân phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng nông thôn mới. Bất cứ người dân nào ở vùng biên này chúng tôi gặp cũng cho rằng, có được cơ sở hạ tầng thôn bản và đời sống như hiện nay cũng nhờ bàn tay, công sức của Bộ đội Biên phòng góp phần.
Phó Chủ tịch xã A Xan, Pơ Long A Nhíp khoe rằng, nhờ mồ hôi và công sức của anh em Bộ đội Biên phòng, người dân vùng rẻo cao mới biết làm ruộng, trồng cây lúa nước, mỗi năm hai vụ, thu năng suất cao. Rồi khi triển khai xây dựng nông thôn mới, Bộ đội Biên phòng đã cùng nhân dân làm đường bê tông, lắp đường ống dẫn nước sạch từ núi cao về từng hộ, xây trường học cho con em… Cũng vì cảm cái nghĩa của CBCS Đồn Biên phòng 649 mà bà con đặt tên ruộng, tên đường, bể nước, vườn rau… là “ruộng lúa biên phòng”; “đường bê tông biên phòng”, “bể nước biên phòng”, “vườn rau biên phòng”…
Riêng Trạm Quân dân y kết hợp của Đồn Biên phòng 649, không chỉ khám, điều trị bệnh CBCS Biên phòng, người dân tại địa bàn Đồn phụ trách, mà còn tổ chức nhiều đợt khám, chữa bệnh cho bà con các dân tộc Lào phía bên kia biên giới. Việc tiếp nhận, cấp cứu hàng nghìn ca bệnh hiểm nghèo của Trạm đã góp phần đẩy lùi các tập tục lạc hậu mang đậm nét mê tín dị đoan vốn có của bà con dân tộc thiểu số vùng rẻo cao, biên giới…
Lúc nắng ráo, đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ như tấm thảm xanh trải dài bất tận. Khi trời âm u, núi rừng được bao phủ bởi lớp sương mù dày đặc. Nhưng, dù mưa hay nắng, giữa bạt ngàn núi rừng ấy vẫn luôn có những người lính quân hàm xanh len lỏi trên những lối mòn, lặng lẽ tuần tra, giữ bình yên dải đất biên cương.
“Khó khăn gian khổ đến mấy, vì sự bình yên biên giới, người lính Biên phòng vẫn nỗ lực vượt qua. Ở mảnh đất biên cương, nghĩa tình bà con đồng bào dân tộc thiểu số với người lính Biên phòng sâu nặng lắm. Chính nghĩa tình đó là động lực giúp anh em chúng tôi vượt qua hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, trước khi chia tay, Chính trị viên Đồn Biên phòng 649, Thiếu tá Bùi Đức Hạnh tâm sự.
----------------------
Nỗ lực phát triển nghề trầm Tiên Phước
Việc phát triển của nghề trầm cũng đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào trồng cây dó bầu trong dân. Hiện tại, ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam có khoảng 4 nghìn hộ trồng cây dó bầu, với số lượng hơn 1 triệu cây, tương ứng với diện tích gần 1.000ha.
Đầu xuân, về lại xứ sở sản xuất trầm Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, đi đến đâu chúng tôi cũng thấy cảnh nhộn nhịp sản xuất trầm cảnh, hương trầm, tinh dầu trầm...
Ông Trương Công Lương, một người theo nghề sản xuất trầm thâm niên, cho hay: Cây dó bầu từ khi trồng cho đến khi có thể khoan lỗ tạo trầm mất thời gian khoảng 10 năm. Khi cây dó bầu đã cho trầm, người mua khai thác đưa về cơ sở sản xuất rồi tổ chức cắt, tỉa, xoi, xỉa để tạo thành những thân trầm cảnh có hình thù bắt mắt. Do vậy, các cơ sở chú trọng khâu tỉa tót, tạo hình để tạo ra nhiều sản phẩm đẹp. Còn phần dăm của cây dó bầu không có trầm được bán cho các cơ sở làm nhang.
“Cái chính ở trầm là tinh dầu; hiện tại giá 1 lít tinh dầu trầm giá 250 triệu đồng. Tuy nhiên, việc chế biến tinh dầu trầm còn khá mới mẻ. Do đó, sự ủng hộ rất lớn về mặt chủ trương, cũng như một số cơ chế, chính sách của UBND huyện Tiên Phước về việc khuyến khích đầu tư phát triển nghề sản xuất trầm hương, tiến tới thành lập làng nghề đã thổi một “làn gió mới” cho xứ sở trầm và mang thu nhập cao trong nhân dân”, ông Lương chia sẻ.
Việc phát triển của nghề trầm cũng đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào trồng cây dó bầu trong dân. Hiện tại, ở huyện Tiên Phước có khoảng 4 nghìn hộ trồng cây dó bầu, với số lượng hơn 1 triệu cây, tương ứng với diện tích gần 1.000ha.
Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào cho nghề làm trầm cảnh, trầm hương và sản xuất tinh dầu của địa phương, đồng thời giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động trồng cây dó bầu tại địa phương với mức thu nhập bình quân mỗi tháng từ 4,5 triệu đồng/người.
Ông Dương Văn Thủ, Trưởng phòng Kế hoạch - Đầu tư huyện Tiên Phước cho biết thêm: Trầm Tiên Phước không chỉ có mặt trên thị trường nội địa mà còn được đưa ra nước ngoài như Trung Quốc, Đài Loan… Nhiều doanh nghiệp đã phát huy tối đa lợi thế của công nghệ thông tin, lập website để quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Và, để “giúp sức” cho doanh nghiệp, nông dân, từ tháng 5/2013, UBND huyện Tiên Phước đã đứng ra thành lập Hội Thủ công mỹ nghệ trầm hương, với sự tham gia tự nguyện của 25 hội viên là các doanh nghiệp, cơ sở trầm hương trên địa bàn huyện.
Sự ra đời của hội này đã tạo sự liên kết, hỗ trợ nhau giữa các hội viên về kinh tế - kỹ thuật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và tăng thu nhập, góp phần xây dựng và phát triển sản phẩm đặc trưng trầm hương Tiên Phước.
“Ngoài ra, UBND huyện Tiên Phước cũng đã kêu gọi tổ chức JICA Nhật Bản đầu tư xây dựng nhà máy tạo nguyên liệu trầm hương từ cây dó bầu tại cụm công nghiệp Bình Yên, tư vấn về thiết kế mẫu mã, xây dựng nhãn hiệu, phân phối sản phẩm, tổ chức bán hàng, tiếp cận thị trường…
Bên cạnh đó, Công ty CP Thế giới xanh TP Hồ Chí Minh đang xây dựng dự án vùng nguyên liệu sản xuất cây dó bầu và sản xuất tinh dầu trầm quy mô công nghiệp tại Tiên Phước. Các dự án này đi vào hoạt động sẽ giúp tận dụng tối đa sản phẩm, tăng giá trị sử dụng của cây dó bầu”, ông Thủ khẳng định.
----------------------
Ưu tiên đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt và chăn nuôi
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa có ý kiến chỉ đạo về công tác phòng, chống hạn hán, bảo đảm cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân 2014-2015 và Hè Thu, Mùa năm 2015.
Theo đó, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài Nguyên và Môi trường chỉ đạo Trung tâm Khí tượng thủy văn quốc gia tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, tăng cường dự báo, nhận định về tình hình mưa, dòng chảy (kể cả dự báo 10 ngày, tháng, mùa), cung cấp thông tin cho các cơ quan, đơn vị liên quan và các địa phương để chỉ đạo sản xuất phù hợp với điều kiện nguồn nước và chủ động phòng, chống hạn, xâm nhập mặn.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục theo dõi, chỉ đạo, đôn đốc các địa phương, đặc biệt là các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ thực hiện các biện pháp ứng phó với hạn, xâm nhập mặn; triệt để thực hiện các biện pháp tiết kiệm nước; tính toán cân đối lại nguồn nước, trong đó cần ưu tiên bảo đảm nguồn nước cho sinh hoạt, chăn nuôi gia súc, đối với những khu vực khó bảo đảm nguồn nước cần chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân chuyển đổi sang loại cây trồng khác có khả năng chịu hạn, tránh thiệt hại cho sản xuất.
Phó Thủ tướng giao Bộ Công Thương chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các nhà máy thủy điện phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cơ quan liên quan và các địa phương xây dựng kế hoạch điều tiết nước của các hồ thủy điện để phối hợp với các hồ thủy lợi bổ sung nguồn nước cho hạ du phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Bên cạnh đó, về lâu dài, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo rà soát lại quy hoạch sản xuất để phù hợp với khả năng nguồn nước từng vùng, có tính tới tác động của biến đổi khí hậu; nghiên cứu, đánh giá cụ thể nguyên nhân hạn hán thiếu nước ở từng khu vực để đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng hạn hán, bảo đảm chủ động trong sản xuất nông nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
-----------------------