Tác động quân sự (của đảo nhân tạo) có thể là thì tương lai, nhưng tác động tâm lý của nó thì ảnh hưởng ngay hiện tại… Đòn tâm lý này sẽ có những kết quả nhất định, nhưng là hiệu quả hay là hậu quả thì vẫn còn quá sớm để có câu trả lời.”
LTS: Bồi đắp các bãi ngầm hay rạn san hô, cải tạo đá thành đảo, xây dựng đường bay, cơ sở hạ tầng trên các đảo, đá chiếm đóng được, chiến lược “đảo nhân tạo” đang được Trung Quốc ồ ạt tiến hành phi pháp. Một sự thay đổi về thực thể địa lý tại biển Đông sẽ có tác động thế nào? Sự thay đổi này có thể buộc những tính toán chiến lược và quân sự của các bên được đưa lên bàn cân? Đằng sau những mục tiêu quân sự còn những mục tiêu lồng ghép nào?
Trao đổi với Tuần Việt Nam, Tiến Sĩ Trương Minh Huy Vũ, khoa Quan hệ quốc tế Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia TP.HCM, nhận định xung quanh khả năng “quân sự hóa” biển Đông của chiến lược đảo nhân tạo và những tác động khả dĩ đến tình hình an ninh khu vực.
Việc Trung Quốc tăng tốc biến các bãi đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam đang làm cả khu vực lo ngại. Có phải đây là những “pháo đài quân sự” có khả năng thay đổi tình hình và những tính toán chiến lược tại biển Đông?
Với một diện tích lên tới 3,5 triệu km2, lại là một vùng biển tương đối kín, các nhà quân sự từ lâu đã thảo luận hai cách thức của Trung Quốc nhằm “hùng bá” khu vực biển Đông. Một là trực diện thông qua việc kiểm soát và xây dựng các đảo/đá ngầm thành căn cứ quân sự, hai là đi theo chiều dọc bằng không quân qua việc thành lập các vùng nhận dạng phòng không giới hạn trong một phạm vi địa lý nhất định. Muốn hiện thực hóa hai khả năng này, quân đội Trung Quốc cần những điểm nút chiến lược.
Tại Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, các đối tượng địa lý ở đây phần lớn là những bãi chìm, đảo san hô không có lợi thế về mặt phòng thủ, cũng như thiếu nước ngọt trầm trọng, trừ đảo Thái Bình (tên tiếng Anh: Itu Aba Island) đang bị Đài Loan kiểm soát. Vì thế nối biển từ đất liền, biến đá ngầm thành vị trí điểm tựa để phát huy khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập (A2/AD) luôn là ưu tiên của Trung Quốc.
Với Hoàng Sa, nơi Trung Quốc cưỡng chiếm hoàn toàn từ Việt Nam năm 1974, Bắc Kinh thiết lập nên cái gọi là đơn vị hành chính cấp địa khu Tam Sa. Tại đây, Trung Quốc đã cho xây dựng đường băng trên đảo Phú Lâm dài trên 2,5 km, cho phép các máy bay tiếp tế và chiến đấu như Su-27/30 hay máy bay ném bom JH-7 có thể cất hạ cánh. Trung Quốc cũng xây dựng một cầu cảng dài khoảng 400m và một đê chắn sóng để bảo vệ tàu bè neo đậu.
Vấn đề ở Trường Sa sẽ khó khăn hơn do khoảng cách, cũng như hạn chế về công nghệ. Chẳng hạn như khả năng tiếp dầu trên không của không quân Trung Quốc vẫn còn hạn chế. Công nghệ này quan trọng trong việc thực hiện A2/AD, vì nó giúp cho các máy bay chiến đấu của Trung Quốc hoạt động liên tục trên chiến trường với khoảng cách xa hơn mà không phải quay về căn cứ tiếp liệu. Điều này sẽ giúp cho tác chiến trên biển được hiệu quả hơn với tầm bay của máy bay và thời gian hoạt động của máy bay được liên tục, không bị ngắt quãng.
Theo một báo cáo của Uỷ ban Đánh giá An ninh và Kinh tế Mỹ - Trung (xuất bản vào tháng 12, 2014), Trung Quốc vừa mới tiếp nhận máy bay tiếp liệu IL-78 đầu tiên vào giữa tháng 10. Đây được coi là máy bay tiếp dầu đầu tiên bên cạnh 12 máy bay H-6U. Cũng theo báo cáo trên, đội máy bay tiếp dầu của Trung Quốc vẫn còn quá khiêm tốn và chưa có khả năng tiến hành các nhiệm vụ tầm xa với quy mô lớn.
Như vậy việc bồi đắp và xây dựng các đảo nhân tạo tại khu vực Trường Sa có phải cách thức tốt nhất bù đắp những hạn chế về địa lý và công nghệ trong thời điểm hiện tại?
Cần có một bức tranh lớn hơn về sự liên kết giữa hải quân và không quân như một cách tiếp cận mới định hình “thế đứng” quân sự của Trung Quốc tại toàn bộ biển Đông. Những nghiên cứu gần đây miêu tả xu hướng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đang cố gắng thúc đẩy cái gọi là “kỹ năng phối hợp” giữa những quân chủng khác nhau. Tác chiến phối hợp hiệp đồng “đa binh chủng” hay tăng cường “kỹ năng phối hợp” giữa các binh chủng với nhau, đặc biệt là không quân và hải quân. Đây là khả năng mà PLA chưa mấy thuần thục sau một thời gian từ 1979 không có những kinh nghiệm chiến trường thực tế.
Đối thủ chính của Trung Quốc là “sức mạnh bá quyền” của Mỹ tại Thái Bình Dương. Lợi thế của Bắc Kinh so với Washington là địa lý, khi có khả năng tập trung lực lượng quân đội nhanh hơn và hỗ trợ các đơn vị quân sự dễ dàng hơn tại các vùng biển trong phạm vi chuỗi đảo thứ nhất. Trong khi đó, Washington sẽ cần phải gửi quân tiếp viện từ cách xa hàng nghìn dặm, duy trì các đơn vị quân sự qua hệ thống liên lạc hàng không và đường biển, và triển khai hoạt động từ một số lượng nhỏ các căn cứ từ các đồng minh.
Tứ giác “đảo nhân tạo” hình thành từ các bãi đá Chữ Thập, Vành Khăn, Hoàng Nham và đảo Phú Lâm (thuộc Hoàng Sa) biến biển thành đất, nối đại dương từ đất liền, giúp xây dựng những “thế đứng” cho chiến lược A2/AD. Ít nhất với tính toán trở thành “tiền tiêu” cho các máy bay, tàu chiến và lực lượng quân sự, đảo nhân tạo mở ra thế trận giúp hạn chế của các lực lượng tiên phong, các căn cứ chiến trường; các đội tàu sân bay; cũng như các hệ thống chỉ huy, kiểm soát, điều khiển, vi tính, tình báo, giám sát và trinh sát (C4ISR) của Mỹ.
Tuy vậy, có nhiều nghi ngờ trong giới quân sự về khả năng “nâng cấp thành công” các đảo nhân tạo thành các “pháo đài quân sự” hoàn chỉnh. Mục tiêu thiết lập thành “tàu sân bay quân sự trên cạn” tại các đảo đã được mở rộng và san lấp là một thí dụ. Thời tiết xấu như bão hay khả năng muối có thể ăn mòn đường cất cánh của máy bay là những khó khăn được viện dẫn đối với việc triển khai các hoạt động không quân.
Nhưng quan trọng hơn, kết cấu của các sân bay dựa trên nạo vét hàng tấn cát ở dưới lòng biển. Nó không ổn định về mặt kết cấu, và có thể là địa điểm “chết” cho các cuộc không kích và tên lửa tầm xa. Đánh giá của hai học giả quốc phòng của trường Cao đẳng Hải quân Mỹ (US Naval War College) cho rằng những “sân bay” này có thể chỉ là “lâu đài cát” và thay vì tìm những nút thắt để vượt qua các tổn thương chiến lược, thì đây là “những tổn thương chiến lược mới” của Trung Quốc tại biển Đông.
Theo những phân tích này, việc biến đảo nhân tạo thành “cơ sở” nhằm làm bàn đạp khống chế toàn bộ biển Đông không đơn giản. Vậy tại sao lại có một sự quan ngại bùng lên từ nhiều nước khi ảnh chụp vệ tinh kế hoạch cải tạo các bãi ngầm, đá, hay san hô của Trung Quốc được công bố?
Có lẽ chúng ta đang nói về hai vấn đề song song, nhưng đồng thời cũng mâu thuẫn. Một là đánh giá khả năng quân sự của các đảo nhân tạo như một bàn đạp quân sự của Bắc Kinh trong việc kiểm soát, hay như bạn nói là “khống chế” toàn bộ biển Đông (xin nhấn mạnh từ “toàn bộ”). Những đánh giá này nhấn mạnh nhiều về khía cạnh quân sự, nhưng đề cập đến khả năng trong tương lai, mà không nói đến nhiều về những khó khăn hiện tại mà Trung Quốc đang phải đối mặt. Nó cũng đặt vấn đề ở dạng tĩnh, theo nghĩa lộ trình đó cứ thế mà tiếp diễn, nhưng không đặt ra khả năng là các nước khác, kể cả láng giềng lẫn các quốc gia ngoài khu vực sẽ can thiệp.
Luồng quan điểm thứ hai nhìn nhận vấn đề ở mặt ngược lại, đề cập các điểm còn hạn chế (về quân sự) Trung Quốc tại biển Đông trong tương quan sức mạnh với Mỹ. Khoảng cách quyền lực giữa hai bên trong thời điểm hiện tại cho thấy “những tổn thương chiến lược” mà Bắc Kinh phải đối mặt là rất lớn nếu phát động một cuộc chiến với Washington (và các đồng minh). Vấn đề ở đây là so với các nước khu vực có tranh chấp thì khả năng quân sự và kiểm soát thực địa của Bắc Kinh đang ưu thế hơn (và ngày càng vượt trội).
Sự hiện diện và can thiệp quân sự của Mỹ (nếu muốn) sẽ thay đổi ván cờ. Các chiến lược “áp đặt cái giá phải trả” (cost-imposition strategy), “kiểm soát vùng xám”, “mở rộng tập trận CARAT” hay “nới lỏng xuất khẩu máy bay không người lái” đã được các chiến lược gia Mỹ thảo luận và đề xuất. Nhưng chúng ta thấy rằng trong hồ sơ tranh chấp biển Đông, Mỹ vẫn “loay hoay” đi tìm phương thức tối ưu để ứng xử với một Trung Quốc “xác quyết, nhưng phi quân sự” từ 2009. “Nước Mỹ” vừa đang mâu thuẫn, vừa đang lưỡng lự.
Ngược lại, nếu “đảo nhân tạo” được xem là một bước đi tiếp theo trong đại chiến lược của Bắc Kinh tại biển Đông thì nó nhấn mạnh vào sự hiện diện mang tính liên tục. Sau cái gọi là Tam Sa, tàu cá, giàn khoan, đường lưỡi bò, đảo nhân tạo tiếp tục thiết lập sự có mặt của Trung Quốc, bền bỉ và ngày càng toàn diện.
“Hiện diện” trong ý nghĩa địa lý vừa tương đương với khoảng cách, vừa là cảm giác về khả năng can thiệp. Tác động quân sự (của đảo nhân tạo) có thể là thì tương lai, nhưng tác động tâm lý của nó thì ảnh hưởng ngay hiện tại, từ các hoạt động hỗ trợ tàu hải giám, mở rộng ngư trường, khai thác dầu khí, nghiên cứu khoa học đại dương, cũng như ngăn cản khả năng xác quyết chủ quyền hay thực thi quyền tài phán của các nước khác.
Ngoài ra, đàm phán Bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN (COC) đang diễn ra. Vụ Philippines khởi kiện Trung Quốc tranh chấp Biển Đông ra tòa án trọng tài quốc tế cũng sẽ đi vào những điểm quyết định trong 2015. Trong cách hiểu đàm phán là cuộc chiến chính trị kéo dài từ diễn tiến “thực địa”, những gì kế hoạch xây cất-cải tạo ồ ạt tại Trường Sa là một đòn “tâm lý chiến”. Đòn tâm lý này sẽ có những kết quả nhất định, nhưng là hiệu quả hay là hậu quả thì vẫn còn quá sớm để có câu trả lời.
---------------------
Tiếp tục tìm MH370: Trung Quốc thể hiện thiện chí?
Bắc Kinh cho biết họ sẽ tiếp tục tìm kiếm chiếc máy bay mất tích MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines.
Ngày 8/3, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cho biết cuộc tìm kiếm chiếc máy bay mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines bị mất tích cách đây một năm sẽ không dừng lại.
Phát biểu bên lề kỳ họp thường niên của Quốc hội Trung Quốc, ông Vương Nghị khẳng định: "Cuộc tìm kiếm MH370 sẽ tiếp tục."
Cùng ngày, trong tuyên bố đánh dấu một năm ngày máy bay MH370 mất tích, Thủ tướng Malaysia Najib Razak cho biết nước này cam kết tiếp tục tìm kiếm MH370 và bày tỏ hy vọng chiếc máy bay này sẽ được tìm thấy.
Chiếc máy bay mang số hiệu MH370 đã biến mất khỏi các màn hình radar chỉ ít lâu sau khi cất cánh từ Kuala Lumpur tới Bắc Kinh. Các điều tra viên cho rằng máy bay này đã bay chệch hướng hàng trăm dặm trước khi rơi xuống Ấn Độ Dương.
Trong những cuộc tìm kiếm kéo dài nhiều tháng trước đây, song song với việc đưa các tàu tìm kiếm mặt nước, các máy bay quan sát dân sự, Bắc Kinh đã sử dụng nhiều phương tiện quân sự để tìm kiếm vùng biển của các quốc gia có liên quan đến tuyến bay mà MH370 mất tích.
Và theo đánh giá của nhiều chuyên gia quân sự vào thời điểm đó thì số máy bay, tàu chiến mà Trung Quốc cử đi tương đương với một hạm đội hải quân cỡ vừa.
Trung Quốc đã cử tổng cộng 18 tàu thuyền, bao gồm các chiến hạm, tàu tuần duyên, tàu chở hàng và cả tàu phá băng, 15 trực thăng, 2 máy bay vận tải cỡ lớn, tham gia tìm kiếm chiếc máy bay mất tích, theo tin tức Reuters đưa ngày 23/4/2014.
Trong đó đáng chú ý là tàu tấn công đổ bộ cỡ lớn Côn Lôn Sơn type 071, tàu khu trục mang tên lửa hành trình Hải Khẩu type 052C, tàu khu trục Trường Xuân 150, Thường Châu 549, Miên Dương 528..., máy bay vận tải chiến lược Ilyushin Il -76.
Trung Quốc đã tìm kiếm trên một khu vực biển rộng tới 80.000 km2, xin phép vào lãnh hải của nhiều quốc gia để bay tìm kiếm và tuần tiễu trên biển. Bản thân Ấn Độ cũng nhiều lần từ chối việc Trung Quốc muốn vào lãnh hải nước này để thực hiện việc tìm kiếm.
-----------------------
Vụ giết ông Nemtsov: Giống kịch bản Mỹ ?
Nhà báo - chuyên gia luật pháp quốc tế Mike Whitney nhấn mạnh, tổng thống Putin đã khiến cho các nhà làm chính trị của Mỹ “sốc nặng”.
Giống "kịch bản của Mỹ"
Mike Whitney nhận xét: “Bây giờ, họ đã biết rằng ông Putin sẽ không bao giờ chịu rơi vào vòng điều khiển của Washington”
Quyết tâm mạnh mẽ trong việc theo đuổi chính sách ngoại giao độc lập của Nga được xem như là một “tội ác không thể tha thứ” đối với nước Mỹ và đặt ra nhiều thử thách đối với siêu cường Mỹ.
Đến bây giờ, Whitney cho rằng cái chết của đại diện phe đối lập, Boris Nemtsov là một phần của âm mưu thay đổi chế độ cầm quyền, thúc đầy bất ổn trong xã hội và làm chính phủ mất ổn định, điều này 'giống như kịch bản của Mỹ'.
Washington cũng đã từng làm hành động tương tự để gây sức ép lên Venezuela, Cuba, Iran, Syria và nhiều nước khác nữa để cho các nước làm theo chỉ thị của Nhà Trắng.
Liên quan đến vụ ám sát, ngày 28/2, các nhà điều tra thuộc Ủy ban điều tra Nga cho biết, vụ sát hại cựu Phó Thủ tướng Nga Boris Yefimovich Nemtsov đã được lên kế hoạch kỹ càng và có thể nhằm mục đích gây bất ổn ở Nga.
“Hiện cuộc điều tra vụ án đang được tiến hành với nhiều hướng khác nhau. Trước hết, có khả năng, vụ sát hại này có thể là một sự khiêu khích nhằm gây bất ổn trong chính trường Nga.
Và ông Nemtsov có thể là một nạn nhân hy sinh cho những người đang tìm cách đạt được mục đích chính trị, phá hoại nước Nga...", người phát ngôn của Ủy ban điều tra Nga, ông Vladimir Markin nói.
Cùng ngày, theo trang Sputnik đưa tin, cựu Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev cũng coi việc ám sát thủ lĩnh đối lập Nga Boris Nemtsov là một âm mưu làm cho nước Nga bất ổn.
“Việc ám sát ông Boris Nemtsov là nhằm làm phức tạp tình hình ở đất nước, thậm chí nhằm gây bất ổn bằng cách làm gia tăng căng thẳng giữa chính phủ và phe đối lập”, ông Gorbachev nói.
Bên cạnh đó, hàng loạt quan chức cấp cao Nga lên tiếng khẳng định phương Tây đứng sau vụ ám sát cựu phó thủ tướng Nemtsov.
Lãnh đạo Chechnya Ramzan Kadyrov tuyên bố: “Không có gì phải nghi ngờ, lực lượng đặc biệt phương Tây đã tổ chức vụ ám sát để kích động xung đột nội bộ ở Nga”.
Đó cũng là quan điểm của hàng loạt nhân vật được kênh truyền hình quốc gia Rossiya 24 trích lời. Cựu chủ tịch Hạ viện Nga Gennady Seleznev nhấn mạnh: “Có thể thấy rõ đây là chiến dịch do bàn tay của lực lượng đặc nhiệm phương Tây thực hiện”.
Còn nhà phân tích chính trị Alexei Martynov đánh giá phản ứng của Mỹ đối với vụ ám sát ông Nemtsov là “nhanh chóng một cách đáng ngờ”.
Moscow buộc tội 2 kẻ ám sát ông Nemtsov, 1 tên thú nhận
RT (Nga) cho hay, hai trong số các nghi phạm bị bắt do liên quan tới vụ ám sát cựu phó Thủ tướng Boris Nemtsov đã chính thức bị Moscow tuyên bố tội danh sát hại ông Nemtsov.
Hai người vừa bị kết tội là Zaur Dadayev và Anzor Gubashev - những nghi phạm bị cơ quan điều tra bắt ngày 7/3. Trong đó, Dadayev "đã thừa nhận có liên quan tới vụ ám sát ông Nemtsov" - theo RT.
Ngoài Dadayev và Gubashev, hiện có 3 nghi phạm khác bị cho là dính líu đến tội ác này - phát ngôn viên tòa án quận Basmanny, Moscow Anna Fadeyeva nói.
Theo Sputnik News, tính đến sáng 8/3, tổng cộng 5 nghi phạm đã bị Ủy ban điều tra Nga (IC) yêu cầu bắt giữ do liên quan tới vụ ông Nemtsov.
RT cho biết, 3 nghi phạm sau Dadayev và Gubashev được xác định là Shagit - em trai Gubashev, Ramzat Bakhaev và Tamerlan Eskerkhanov. Yêu cầu bắt giam đối với 3 tên này đã được xem xét độc lập bởi một thẩm phán khác.
"Các nghi phạm phủ nhận mối liên hệ của chúng với vụ án, nhưng chúng tôi có đủ bằng chứng, bao gồm nhân chứng và vật chứng" - một nhà điều tra nói với tòa.
Tên Eskerkhanov thậm chí còn khẳng định mình có chứng cứ ngoại phạm, song cuối cùng tòa vẫn yêu cầu bắt giam cả ba tên.
Chính trị gia Boris Nemtsov - người từng giữ nhiều vị trí quan trọng trong chính phủ Nga hồi thập niên 1990 - đã bị ám sát bằng 4 phát đạn vào đêm 27/2 tại Moscow.
Bắt hai nghi phạm ám sát Nemtsov đến từ một khu vực
---------------------