Các lợi thế sẵn có lâu nay đã biến Ấn Độ trở thành một cường quốc hấp dẫn trên thế giới.
Học giả quốc tế “bẻ gãy” luận điệu của TQ về chủ quyền trên Biển Đông
- Cập nhật : 30/09/2014
Mặc dù, Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên phần lớn diện tích Biển Đông song ngay cả những nhà bình luận ủng hộ quan điểm này cũng không thể đưa ra bằng chứng lịch sử thuyết phục.
Sau khi chuyên gia Bill Hayton kêu gọi giới học giả đưa ra những bằng xác thực yêu sách chủ quyền trên Biển Đông của Trung Quốc, ông đã nhận được ý kiến từ Tiến sĩ Li Dexia và Tan Keng.
Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu này vẫn không thể chứng minh Trung Quốc khẳng định chủ quyền với bất kỳ hòn đảo cụ thể nào trên Biển Đông trước năm 1909. Ngoài ra, những lập luận của hai học giả Trung Quốc cũng không đưa ra được bằng chứng xác minh. Thậm chí, một số lời xác nhận còn không đúng sự thật.
Vậy giới quan chức cận đại của Trung Quốc đã dựa vào những bằng chứng nào để đưa ra tuyên bố chủ quyền với các khu vực trên Biển Đông? Không có bằng chứng nào cho thấy nhà thám hiểm Trịnh Hoà hay các đô đốc dưới thời nhà Minh đưa ra những yêu sách trên. Điều này tương tự với đội quân viễn chinh Mông Cổ cách đó 100 năm.
Khoảng 500 năm trước, những người đi biển thường cho tàu thuyền đi ven bờ Biển Đông để tránh va phải những rạn san hô không được ghi trên bản đồ vốn nằm giữa lòng biển.
Do đó, nếu hai tác giả Trung Quốc có những tài liệu hay bằng chứng xác minh Bắc Kinh từng đưa ra yêu sách chủ quyền trên Biển Đông trong lịch sử, thì đây chính là lúc để công bố các dữ liệu tham khảo chính xác đó.
Bằng chứng mơ hồ
Trên tờ The Nation (Thái Lan), tác giả Hayton khẳng định điều chắc chắn là nhiều văn bản cổ của Trung Quốc có đề cập tới cụm từ “quần đảo” nhưng nó lại không chỉ đích danh vùng đất nào cụ thể cũng như không thể là bằng chứng để chứng minh Trung Quốc đã phát hiện và tuyên bố chủ quyền.
Tiến sĩ Li và Tan đã đưa ra nhiều luận điểm. Từ đó, tác giả Hayton đã phân tích từng quan điểm một.
Thứ nhất, hai tiến sĩ Trung Quốc không thể đưa ra được những bằng chứng thuyết phục tác giả Hayton rằng cái tên "Xisha" (Tây Sa) – ám chỉ quần đảo Hoàng Sa, đã xuất hiện trong các tài liệu cổ của Trung Quốc trước khi cái tên "West Sand" (Bãi cát phía Tây) xuất hiện trên bản đồ phương Tây.
Ông Hayton cho biết ông sẵn sàng chấp nhận rằng người châu Âu đã đặt tên khu vực địa lý theo cách gọi của địa phương nhưng trong trường hợp này, tác giả cho rằng điều ngược lại đã xảy ra (tức Trung Quốc đặt tên các đảo, quần đảo theo cách gọi từ tiếng Anh). Ông Hayton cũng thách thức các học giả Trung Quốc khi tuyên bố rằng sẽ "chấp nhận rằng nhận định của mình là sai" miễn sao hai học giả Trung Quốc đưa ra được bằng chứng xác minh.
Ngoài ra, điều hiển nhiên lời khẳng định bản hiệp ước ký kết tại Bắc Kinh vào ngày 26/6/1887 giữa Pháp và Trung Quốc trao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc là không đúng sự thật. Bởi Công ước này chỉ liên quan tới khu vực Đông Dương (đất liền) mà người Pháp gọi là "Tonkin" (Bắc Kỳ) - vùng cực bắc mà nay là Việt Nam.
“Chỉ mặc nhận” mà không có bằng chứng lịch sử
Tác giả Hayton đặc biệt quan tâm tới những “cột mốc đá” trên quần đảo Trường Sa được các quan chức Trung Quốc và hải quân Trung Quốc tới đảo Duy Mộng dựng lên vào các năm 1902 và 1907. Ông Hayton đã tìm hiểu về các sự kiện này và khẳng định không có một bằng chứng nào chứng thực hai sự kiện này đã diễn ra. Vậy Tiến sĩ Li và Tan đã dựa vào căn cứ nào để đưa ra những lời khẳng định trên?
Khi nghiên cứu sâu hơn tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, ông Hayton càng nhận thấy rằng những lập luận của Bắc Kinh đều dựa trên những lời khẳng định không có căn cứ và được lặp đi lặp lại hàng thập kỷ qua để thuyết phục dân chúng Trung Quốc mà không có bất cứ bằng chứng chính xác nào.
Tuy nhiên, rất nhiều lời khẳng định mặc nhận nà đã trở thành một phần trong “quan niệm phổ biến” trên quốc tế về Biển Đông. Chúng đã được đề cập trong các bài viết của Hungdah Chiu và Choon-ho Park, hay trong bài viết năm 1976 với tựa đề “Các quần đảo tranh chấp trên Biển Đông” của Dieter Heinzig, và trong cuốn sách “Tranh chấp Biển Đông” của tác giả Marwyn Samuels xuất bản năm 1982. Nhiều học giả sau này đã dựa vào các tà liệu trên để tham khảo.
Nỗ lực của hai tác giả Heinzig và Samuels có thể được xem là những nghiên cứu tiên phong, mang lại cái nhìn sâu sắc về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Tuy nhiên, những nghiên cứu của họ lại chủ yếu dựa trên các bài viết được đăng tải trên nhiều tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi Bắc Kinh chiếm đóng nửa phía tây quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974 và mang ý nghĩa bao biện cho cuộc xâm lược vô lý này.
Trích dẫn có chọn lọc
Trong các bài bình luận của mình, hai tác giả Li và Tan đã trích dẫn ít nhất hai ví dụ được trích một cách có chọn lọc trong những tài liệu lịch sử. Phần đầu tiên liên quan tới Công thư được cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi tới người đồng cấp Trung Quốc vào tháng 9/1958 nhằm phản đối “Tuyên bố về Vùng lãnh hải" của Bắc Kinh.
Quần đảo Hoàng Sa được vẽ khá chi tiết và chuẩn xác trong khoảng từ vĩ độ 16 đến 17 và kinh độ từ 109 đến 111.
Tuyên bố này đã mở rộng các vùng lãnh hải mà Trung Quốc đơn phương khẳng định chủ quyền thêm 12 hải lý. Ngoài ra, nó còn nhằm ngăn chặn các tàu của Mỹ can thiệp hỗ trợ cho các đồn trú quân sự của Đài Loan trên đảo Kim Môn và Mã Tổ, mà sau đó bị quân đội Trung Quốc nã pháo.
Phần thứ hai liên quan tới tuyên bố khẳng định yêu sách của Trung Quốc đối với các thực thể trên Biển Đông vào năm 1958. Toàn văn Công thư của cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho người đồng cấp Trung Quốc Chu Ân Lai đã không nhắc đến phần thứ hai này dù tán thành phần đầu.
Đoạn văn đầy đủ viết: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và chấp thuận bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về quyết định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc”. Theo đó, bức thư trên không bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc một cách dứt khoát, nhưng cũng không chấp thuận yêu sách này.
Hai tác giả Trung Quốc còn trích dẫn sai Tuyên bố Cairo ngày 27/11/1943. Theo đó, “Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi Tất cả các vùng lãnh thổ khác mà nước này đã giành được bằng bạo lực và sự tham lam”. Tuy nhiên, trích dẫn này đã không dẫn đúng tinh thần của tuyên bố trên.
Câu văn đúng được viết như sau: “Nhật Bản sẽ bị tước hết tất cả các quần đảo trên Thái Bình Dương mà nước này đã̃ chiếm hữu hay chiếm đóng từ khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, và tất cả các vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp của Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ phải được trao trả cho Trung Hoa Dân quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà nước này đã chiếm hữu được bằng bạo lực và sự tham lam”.
Tuyên bố trên không đề cập tới bất kỳ thực thể nào trên Biển Đông, ngoại trừ Đài Loan và Bành Hồ, và cũng không đề cập tới bất cứ quyền “sở hữu” các vùng lãnh thổ khác mà Nhật Bản sẽ bị trục xuất.
Việc tác giả Hayton khẳng định, Philippines đã tuyên bố chủ quyền với một nhóm đảo nhỏ trên Biển Đông mà nước này gọi là nhóm đảo Kalayaan. Trong khi đó, Việt Nam khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tác giả Hayton nói thêm ông không nghiêng về ủng hộ cho bên nào trên Biển Đông. Đơn giản, ông Hayton chỉ muốn khẳng định Trung Quốc đã không đưa ra được những bằng chứng lịch sử thuyết phục để chứng minh cho những yêu sách của mình.
Theo ông Hayton, Trung Quốc không có hành động chủ quyền nào trước ngày 6/6/1909 đối với quần đảo Hoàng Sa và ở quần đảo Trường vào ngày 12/12/1946.
Theo MINH THU/Infonet//PLO